Bệnh vú lành tính là tất cả các bệnh lý của vú, trừ ung thư vú và các bệnh lý nhiễm trùng vú.
Bệnh lý này thường gặp ở biểu mô ống dẫn sữa, hoặc ở mô liên kết và mô mỡ.
XƠ NANG TUYẾN VÚ
- Bệnh lý này có thể có hoặc không có những biểu hiện lâm sàng như đau hoặc khó chịu.
- Xơ nang tuyến vú là một tổn thương lan toả bao gồm nhiều bất thường phối hợp, có các thành tố chính:
+ Các ống: tăng sinh ống và sự hình thành nang.
+ U nang: là do các phần của ống dẫn sữa ít nhiều bị dãn và chế tiết thanh dịch. Số lượng và kích thước của các u nang này thay đổi tùy trường hợp.
+ Các phân thuỳ: tăng sinh tuyến (tăng sinh phân thuỳ) và tăng sinh tuyến xơ cứng.
+ Mô đệm: xơ hóa.
- Các thương tổn tăng sinh (tăng sinh các tế bào biểu mô, tăng sinh tuyến xơ cứng, u nhú) làm tăng nguy cơ ung thư vú. Sự tăng sinh kết hợp loạn sản làm tăng nguy cơ này tới 4-5 lần. Những thay đổi không tăng sinh (tăng sinh tuyến, nang, giãn ống dẫn sữa) không làm tăng nguy cơ ung thư vú.
1. Lâm sàng:
- Tuổi: bệnh thường bắt đầu sau 30 tuổi, hay gặp ở giữa lứa tuổi 40-50. Các triệu chứng mất đi sau mãn kinh.
- Dấu hiệu cơ năng: đau vú theo chu kỳ, thường xuất hiện khoảng 8 ngày trước khi hành kinh, mất đi sau hành kinh, đau tự nhiên, lan ra hai tay.
- Dấu hiệu thực thể:
+ Các u nang đặc trưng: khối u tròn, giới hạn rõ, hơi cứng, thường đau, vị trí thường ở 1/4 trên ngoài, kích thước và số lượng thay đổi.
+ Các mảng cứng: lâm sàng thường thấy những mảng cứng trên vú giới hạn không rõ, vị trí hay gặp là 1/4 trên ngoài, mất đi sau hành kinh.
+ Vú tăng thể tích.
Ảnh: sưu tầm
2. Cận lâm sàng:
- X quang vú (mammography): trên X quang cho thấy.
+ Vú tăng mật độ.
+ Cản quang mờ tương ứng với các vùng bị phù nề.
+ Cản quang tròn tương ứng với u nang.
+ Những vết canxi hóa to, nhỏ rải rác, không tập trung thành nhóm.
- Siêu âm có thể giúp phân biệt giữa các nang và các tổn thương cứng.
- Chọc hút làm tế bào: chọc hút các nang cho phép đánh giá màu sắc của dịch. Khi chọc hút dịch lẫn máu phải nghĩ tới ung thư dạng nang. Tuy nhiên, nếu dịch trong, vẩn đục, vàng hoặc xanh, khi đó thường là nang lành tính. Sau chọc hút nang, cần khám lại vú nhằm đảm bảo khối u đã hoàn toàn loại bỏ. Nếu khối u còn sót, cần tiến hành sinh thiết.
3. Chẩn đoán phân biệt:
- Đau trong hội chứng tiền kinh: thường đau ít và bắt đầu 2-3 ngày trước khi có kinh, không có tăng thể tích vú rõ rệt, khám thấy vú mềm và đều đặn.
- Đau thần kinh liên sườn: đau thường 1 bên, thoáng qua ở một điểm xác định, không liên quan đến chu kỳ kinh.
- U nang: có thể nhầm với u xơ tuyến. Việc xác định phân biệt giữa nang với khối u rắn qua khám thực thể sẽ không cho kết quả tin cậy. Trong trường hợp này, cần tiến hành siêu âm hoặc chọc hút/sinh thiết.
- Mảng cứng: có thể khó phân biệt với trường hợp ung thư vú. Các mảng cứng này thường biến mất sau hành kinh, cải thiện với điều trị progesterone. Các mảng cứng liên quan tới u xơ nang thường ở cả hai bên, và có cảm giác một mảng dày khác với một khối cứng. Cần lưu ý: Bất kể một khối cứng nào tồn tại trong hơn 2 chu kỳ kinh cần phải sinh thiết.
4. Điều trị:
- Có thể bắt đầu điều trị nếu bệnh nhân cảm thấy khó chịu và mong muốn được điều trị. Cảm giác đau thường biến mất một cách tự nhiên, và trong trường hợp này thường chỉ cần trấn an người bệnh là đủ.
- Chế độ ăn: nên tránh các thực phẩm có chứa methylxanthines (cà phê, trà, coca cola, socola). Tuy nhiên, chưa có bằng chứng rõ ràng rằng đây là một biện pháp hiệu quả.
- Điều trị nội tiết:
+ Giai đoạn hoàng thể đơn thuần, từ ngày 15 -25 của chu kỳ kinh: 5mg medroxy- progesteron acetate (MPA).
+ Đồng vận Dopamin (ức chế prolactin): bromocriptine 2,5mg, tăng dần liều, khởi đầu với 0,5mg, 1mg, 2,5mg. Các tác dụng phụ gồm buồn nôn, chóng mặt.
+ Kháng estrogen, Danazol 100-200mg/ngày, từ ngày 15-25 chu kỳ kinh. Do các thuốc này có tác dụng androgen nên việc sử dụng hormone này bị hạn chế.
+ Tamoxifen (Nolvadex) với liều 10mg/ngày từ ngày thứ 5 đến thứ 25 của vòng kinh.
- Thuốc kháng viêm không steroid.
- Phẫu thuật cắt bỏ nang trong các trường hợp: chọc dò dịch có lẫn máu, có u nhú trong nang, xét nghiệm tế bào cho kết quả nghi ngờ. Có thể thực hiện dẫn lưu đơn thuần đối với nang có đau.
- Sinh thiết giải phẫu bệnh trong trường hợp tồn tại mảng cứng sau dẫn lưu nang hoặc sau 2 chu kỳ kinh. Nghi ngờ ung thư nếu có các tế bào loạn sản khi sinh thiết.
NẾU BẠN CÓ THẮC MẮC VỀ CÁC BỆNH TUYẾN VÚ, HÃY LIÊN HỆ VỚI PHÒNG KHÁM UNG BƯỚU PHAN THỊNH ĐỂ ĐƯỢC HỖ TRỢ VỚI SỐ HOTLINE 0901651108 - 0822622108