U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HÓA (GISTS)

số 26, đường số 2, khu phố Bình Đường 1, phường An Bình, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương

Email: acc.phongkham@gmail.com

Điện Thoại:

0822622108 - 0901651108

Ngày đăng: 09/08/2024 - 09:33 PM

U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HÓA (GISTS)

Các khối u mô đệm đường tiêu hóa là các khối u của đường tiêu hóa có nguồn gốc từ các tế bào tiền thân trung mô ở thành ruột (tế bào kẽ Cajal). Chẩn đoán thường bằng nội soi. Điều trị là phẫu thuật cắt bỏ.

Các khối u mô đệm đường tiêu hóa (Gastrointestinal stromal tumors, GIST), được phân loại là một loại sarcoma mô mềm và là loại sarcoma phổ biến nhất phát sinh trong đường tiêu hóa. Nhìn chung, các khối u này tất hiếm gặp với khoảng 4000 đến 6000 trường hợp mới hằng năm ở Hoa Kỳ.

GIST là kết quả của đột biến ở tyrosine kinase thụ thể. Phần lớn là do đột biến gen C-KIT, trong khi một số là do đột biến gan PDGFA. Một số do xạ trị vùng bụng trước đó khi điều trị các khối u khác. Phần còn lại là do nhiều đột biến ít phổ biến hơn và thường được gọi là GIST thể hoang dại.

Trong một nghiên cứu, 51% số GIST xảy ra ở dạ dày, 36% ở ruột non và một số nhỏ ở thực quản, đại tràng và trực tràng. Độ tuổi trung bình khi có triệu chứng là 50 đến 60.

GIST có thể phát sinh ở những người mắc hội chứng di truyền. Hai hội chứng phổ biến nhất là:

  • Bệnh u xơ thần kinh loại 1
  • Thiếu hụt SDH gia đình (hội chứng Carney – Stratakis)

GIST thường phát triển chậm nhưng tình trạng này có nhiều khả năng là ác tính. Khả năng ác tính của một GIST cụ thể có liên quan đến vị trí bắt nguồn của bệnh trong đường tiêu hóa, kích thước của khối u nguyên phát và tỷ lệ phân bào được quan sát thấy trên sinh thiết (hoặc bệnh lý phẫu thuật). Trong số này, các khối u nhỏ ở dạ dày có tỷ lệ phan bào thấp có kết quả thuận lợi nhất. Những trường hợp có kích thước < 2cm có khả năng ác tính rất thấp (2% đến 5%) và thường được kiểm soát bằng theo dõi.

Các triệu chứng của GIST rất khác nhau tùy theo vị trí nhưng bao gồm chảy máu, khó tiêu và tắc nghẽn. các trường hợp này cũng thường được phát hiện tình cơ trên chẩn đoán hình ảnh được thực hiện vì một lý do khác.

Chẩn đoán GIST

  • Nội soi: chẩn đoán GIST thường bằng nội soi có sinh thiết và siêu âm qua nội soi để phân loại giai đoạn.
  • Hóa mô miễn dịch có nhuộm dương tính với CD117 (C-KIT) và DOG-1 là đặc trưng để chẩn đoán GIST.

Sau khi được chẩn đoán, tất cả bệnh nhân đều được phan giai đoạn hoàn chỉnh bằng chụp CT ngực, bụng và vùng chậu.

Điều trị GIST

  • Phẫu thuật cắt bỏ

Điều trị GISTs bằng phẫu thuật. bệnh nhân có bệnh di căn (phổ biến nhất là gan) cũng có thể là ứng cử viên cho phẫu thuật tùy thuộc vào mức độ thương tổn ở gan, kích thước khối u và khả năng cắt bỏ bằng phẫu thuật.

  • Thuốc ức chế thyroxin kinase Imatinib có thể được sử dụng khi khối u dương tính với protein KIT CA117; thuốc có hiệu quả với các bệnh nhân có u không thể cắt bỏ hoặc u GISTs đã di căn và điều trị bổ trợ sau phẫu thuật là người lớn. Imatinib cũng thường được cho dung trước phẫu thuật để thu nhỏ các khối u có thể cắt bỏ ở ranh giới và giúp phẫu thuật trở nên khả thi hoặc dễ dàng hơn. Đối với các khối u kháng imatinib, có thể sử dụng sunitinib và regorafenib.
  • Avapritinib, một thuốc ức chế tyrosine kinase khác, nên được sử dụng làm liệu pháp bước đầu cho những bệnh nhân có đột biến gen exon 18 thụ thể alpha yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc tiểu cầu (PDGFRA), bao gồm cả đột biến PDGFRA D842V.

MSD

Tại phòng khám ung bướu Phan Thịnh do bác sĩ Phan Xuân Minh Thịnh phụ trách có chuyên môn cao về các bệnh lý ung bướu, trải qua đào tạo liên tục và có thể đưa ra giải pháp cho các vấn đề về bệnh lý ung thư. Liên hệ ngay với số điện thoại 0901651108 hoặc 0822622108 để sớm được giải đáp thắc mắc.